Phía sau cánh cửa…

Đơn giản chỉ là một cánh cửa phía sau nhà thôi, nhưng nó đã đi vào nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người trên mảnh đất “lắm nắng nhiều mưa” của quê hương tôi.

Không đẹp đẽ, trang hoàng như tường rào, cửa sắt. Chiếc cửa sau nhà đa số đều là những cánh cửa gỗ. Và tất cả mọi hoạt động của con người, sự vật đều được khắc họa sau cánh cửa đó.

Mỗi khi ở nhà một mình để trông nhà cho bố mẹ đi làm đồng xa, tôi thường ra bậc cửa sau để nhìn những ngôi nhà rúm ró trong khói chiều bảng lảng, để nghe tiếng chim gù trên mấy nhành tre buông xõa. Và cũng cánh cửa đó, mỗi lúc bị ông cho ăn roi, tôi thường ra đó ngồi một mình để khóc thút thít, cạnh đó có hang dế, nó mở mắt nhìn tôi đầy vẻ giễu cợt.

Không phải là nơi ra vào nhiều như cánh cửa chính phía trước nhà, nhưng cánh cửa sau là một nơi để sinh hoạt, để “cất giấu” những điều gì đó thiêng liêng quá đỗi. Cách khu vườn nhà tôi có con kênh hiền hòa chảy qua, chị tôi thường ra đó giặt quần áo khi ánh bình minh chảy đầy trên vai áo chị. Và ánh hoàng hôn nhuốm một màu đỏ trên mi mắt chị mỗi khi chiều về, chị thường dắt trâu ra đó uống nước.

Cánh cửa sau như là một bức chân dung, để vẽ thêm những gì thật sinh động cho một cuộc sống ở thôn quê. Chúng tôi thường ra sau cánh cửa ngồi đó vào mỗi buổi trưa, để xem lũ trẻ hóng hớt rong chơi, vài ba đứa lên bảy rồi mà vẫn cởi truồng… tồng ngồng!

Bước qua cánh cửa sau ấy là khu vườn đầy tiếng chim kêu, đầy nắng, đầy gió và nó đã lưu giữ những khoảnh khắc, những cái nhìn xa xăm của bà tôi. Bên khung cửa, bà nhìn ánh nắng tắt dần để gọi đêm về buông xuống khu vườn. 

Người trong làng tôi thường thích qua lại với nhau bằng cánh cửa sau. Nhà này sát nhà kia, chỉ cần giẫm lên cái bờ rào dâm bụt, hay bụi cây là đến cửa sau, ngay chái bếp cũ mà tỉ tê tâm sự. Đó cũng là nơi sinh hoạt của gia đình tôi với một vài gia đình láng giềng nằm san sát nhau. Mỗi khi vào cuối mùa thu hoạch ngô, khoai gì đó, mặc dầu nồi vẫn đặt trên bếp chờ cho trái bắp, củ khoai chín dần, thì đã thấy mấy chị hàng xóm “nhiệt tình” qua trải chiếu dưới gốc ổi để nói chuyện với nhau cởi mở.

Từ cánh cửa sau bước ra là cái chái bếp già nua. Còm cõi. Rêu phong theo thời gian, đã trải qua nhiều thế hệ. Ở đó lúc nào cũng có bóng mẹ gầy guộc ngày hai lần nhóm lửa. Ở đó có người ông, người bà ngày ngày đẩy cánh cửa sau chống gậy ra ngoài vườn thắc thỏm xem quả mít, trái ổi đã chín chưa, để phần cho con cháu.

Và từ cánh cửa sau bước ra ngoài vườn, nơi đó cũng là nơi mẹ đã chôn nhau cắt rốn chị em tôi mỗi lần hạ sinh. Và cạnh đó có bụi chuối xanh xanh với mấy búp chuối đỏ chót nằm vắt vẻo trên cao. Có cả mấy tổ chim sẻ đang làm tổ trên cây ổi.

Cánh cửa phía sau nhà như mở ra một thế giới riêng thật đẹp, thật bình dị đối với đời sống thôn quê. Để rồi cánh cửa đó trở thành một vật gì thiêng liêng quá đỗi, mà chỉ có ngôn ngữ trái tim mới định nghĩa được.

Mỗi khi đến ngày rằm, khi ánh trăng bồng bềnh trôi qua khe cửa, chị em tôi thường ngồi trên chiếc giường tre của ông tôi để ngắm chị Hằng, ngắm chú Cuội. Và để nghe hương ổi hương cau chùng chình trong gió ùa về phía cửa.

Tạo cửa, làm nhà thường là công việc của một người đàn ông, nhưng trong mỗi gia đình, đằng sau cánh cửa bếp là bóng dáng của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, từ khi về làm dâu cho đến khi có con, có cháu. Tiếp nối từ đời này qua đời khác.

Trong câu hát xưa, đã thấp thoáng hình ảnh của cánh cửa phía sau nhà, nơi đó như là một chỗ tựa để người con gái nhớ về quê hương khi lấy chồng xa xứ:

“Chiều chiều ra đứng cửa sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Mẹ tôi thường kể lại rằng, ngày mẹ mới đi lấy chồng, ngoài việc bếp núc, gắn bó với mảnh vườn, thớ đất, mỗi khi nghe tiếng chim vịt kêu chiều mẹ tôi thường tựa vào đó ngóng về phía chân trời xa xa, đỏ quạch ánh hoàng hôn để nhớ về quê nhà, thương cha mẹ nhiều hơn.

Cứ như một nhịp kim đồng hồ, bên cánh cửa phía sau nhà đó, mẹ tôi thường ngóng về quê cũ, lâu dần thành một thói quen, để rồi từ cái “chiều chiều” đó đã trở thành cái “chín chiều” trong trái tim vỡ vụn, lo toan của người con gái lấy chồng xa.

Chái bếp phía sau cánh cửa, đó là nơi mà nồi cơm nguội, niêu nước chè mẹ đã để sẵn cho chúng tôi khi không có nhà. Mỗi khi đi học về, chúng tôi thường ngồi trên bậc cửa để nhấm nháp từng miếng cơm nguội với nồi canh cua đồng mát rượi.

Vào những buổi trưa hè không ngủ, nhìn thấy lũ bạn thập thò ngoài cửa sổ, tôi thường rón rén ra cửa sau để theo chúng nó nhảy dây, mặc cho ngọn roi dâu của bố đang nằm vắt vẻo trên phên, như muốn đe dọa những trận đòn.

Tiếng gà mái cục tác tìm mồi, gà con chim chíp và những thân cây vừa đâm chồi nảy lộc, tiếng xối nước ào ào bên chum nước của em tôi, cùng cảnh mẹ tần tảo sàn thóc… Tất cả đều được khắc họa qua cánh cửa màu xanh mộc mạc, thấm đượm tình quê, tình người ấy.

Và đâu đó, cánh cửa sau còn chứa trong mình những tục lệ mà ngày xưa ông bà ta đã để lại. Những đôi lứa yêu nhau, nhưng vì lỡ “ăn cơm trước kẻng”, đến khi rước dâu, người ta thường rước vào cửa sau để tránh đi những điều tai tiếng, và tránh đi những gì được cho là không hay trong gia đình chồng.

Và từ cánh cửa sau trong thực tế, nó được dùng như một khái niệm để chỉ những công việc, những cách nói, cách hiểu trong mối quan hệ xã hội ngày nay.

Hình ảnh cánh cửa sau trong mỗi gia đình, đã góp phần rất lớn vào sinh hoạt cũng như nếp sống, nếp nghĩ trên mỗi chặng đường quê. Và cánh cửa ấy, thế giới ấy là một nhịp cầu để gắn liền tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm từ ngày này qua tháng nọ, trong tâm thức của tất cả những người con yêu quê và nhớ quê.