'Viagra' thời cổ đại: Huyền bí và Sự thật
Dù được thần bí hóa nhưng qua thời gian, các nhà y học hiện đại đã
tìm ra được yếu tố khoa học của các loại xuân dược cổ xưa.
Qua thời gian, các loại động vật, thực vật, khoáng vật được dùng chế xuân dược
càng nhiều. Theo nghiên cứu của y học hiện đại, nhiều dược liệu để điều chế xuân
dược cổ đại quả là có tác dụng tráng dương, kích thích sinh dục, chỉ có điều
người xưa đã phủ lên nó bức màn huyền bí, thậm chí hoang
đường.
Chủng loại của xuân dược
Theo Khai Nguyên Thiên Bảo di sự viết về Đường Huyền Tông: “Minh Hoàng sủng
ái Dương Quý Phi, không màng triều chính. An Lộc Sơn muốn hưởng thánh ân bèn tìm
dâng 100 viên thuốc gọi là “Trợ tình hoa hương”, to như hạt gạo, màu đỏ. Mỗi khi
vào hậu cung thì ngậm một viên, dục tình bộc phát, giao hoan bền bỉ, gân cốt
không mỏi. Ngoài ra, những chuyện về Tùy Dạng Đế hay trong cung đình triều Minh,
Thanh đều có liên quan đến xuân dược. Tất nhiên, việc cụ thể về nhân vật hay sự
kiện là không đáng tin nhưng truyền thống sử dụng xuân dược của người Trung Hoa
cổ, đặc biệt trong chốn cung đình, là không thể nghi ngờ.
|
Cung nữ chờ
thánh ân. |
Dược tính của xuân dược có 2
loại: Loại thứ nhất có hiệu ứng kịch liệt, sau khi sử dụng là có tác dụng ngay
trong một thời hiệu nhất định. Khi thuốc phát tán bắt buộc phải thực hiện tính
giao, nếu không “lửa dục đốt thân, hậu quả khôn lường”. Loại thứ hai có tác dụng
hòa hoãn, sử dụng lâu dài mới có hiệu quả, vì thế xuân dược loại này khó phân
ranh giới với các loại “bổ dược”. Theo lý luận Trung y, căn bản của tráng dương
là ở bổ thận vì thận tàng tinh, chủ khí tiên thiên, bổ thận có ích cho việc kéo
dài tuổi thọ. Bởi thế, trong các bài bổ dược được gọi là có tác dụng “diên niên
ích thọ” hầu hết đều có thành phần “tráng dương” và “tư âm”. Những dược liệu như
lộc nhung, câu kỷ là loại bổ dương thường dùng nhất thời cổ.
Loại xuân
dược “nội phục” - uống trong, cũng có tác dụng với nữ giới, uống vào có thể kích
thích người nữ xuân tình rạo rực, khó lòng kiềm chế. Đây không phải là vô căn
cứ, trong dược phẩm cổ đại và hiện đại đều có loại thuốc kích dục
này.
Tên gọi của các loại xuân dược cũng tuân theo quy định riêng. Có
loại chỉ rõ vị thuốc chủ yếu được dùng, như: “Hưng dương ngô công đại” (dùng con
rết), “Long cốt trân châu phương” (dùng xương hóa thạch), “Hải cẩu đại bổ tễ”
(dùng thận hải cẩu). Có loại chỉ rõ công dụng, như “Trị nam tử linh âm trưởng
đại phương” (làm dương vật lớn ra), “Linh nữ ngọc môn tiểu phương” (làm âm đạo
nhỏ lại). Có loại lại mượn tên trong truyền thuyết, như “Đát Kỷ nhuận hộ
phương”, “Thủy Hoàng đồng nữ đan”, “Võ Tắc Thiên hoa tâm động”, “Tố Nữ ngộ tiên
đan”…
Các loại thực phẩm, dược phẩm bổ dương
Qua
thời gian, các nhà y thuật cũng dần vén bức màn thần bí của các loại xuân dược.
Ví dụ, loại thuốc nhục thung dung (crobanche coerulescens) có ở vùng Tân Cương,
Nội Mông, trong Thần Nông bản thảo kinh xếp vào hạng thượng phẩm, có tác dụng
“bổ thận, tráng dương, dưỡng ngũ tạng, ích tinh khí”. Theo phân chất hiện đại,
loại thuốc này có chứa nhiều vitamin E, chất trung tính kết tinh vegeto alkali,
có tác dụng trị liệt dương, xuất tinh sớm, làm tăng trọng lượng tử cung, tăng
tiết nước bọt, hạ huyết áp… Nhưng trong Dậu Dương tạp trở đời Minh thì nhục
thung dung có xuất xứ ly kỳ: “Nhục thung dung sản sinh ở vùng biên ải phía Tây,
vùng cây cổ thụ. Nó là do bầy ngựa tụ lại, giao hợp với nhau, tinh rơi xuống đất
mà mọc lên. Da như vảy tùng, thân mềm nhuận như thịt. Những phụ nữ không chồng
miền biên ải thường dùng nó để trợ dâm. Thứ này một khi gặp âm khí thì lớn nhanh
rất mau, nên hái làm thuốc thì làm mạnh dương đạo, bổ âm ích tinh”.
Con
tắc kè (cáp giới, gekko gekko) người xưa gọi là loài có “tính dâm” vì thấy chúng
giao cấu cả ngày không rời. Loại tốt nhất là tắc kè ở Ngô Châu, Quảng Tây, đem
sấy khô nghiền bột uống hoặc dùng cả đôi ngâm rượu đến khi có màu xanh ngọc bích
là dùng, được xưng là “tráng dương đại bổ”. Vì thế, tắc kè là một dược liệu chủ
yếu trong xuân dược cổ đại. Ngoài ra, thường thấy các loại như hải mã, lộc
nhung, đinh hương, câu kỷ, ba kích, thù du, xà sàng tử, thố ty tử, nhân sâm,
phục linh, dương khởi thạch… Còn có những thứ quái dị như vân mẫu (mica), thạch
hôi (vôi), tử hà xa (nhau thai), thậm chí cả thai nhi… Quả là để thỏa mãn nhu
cầu tình dục, người ta đã không từ một thứ gì.
Trong rất nhiều sách viết
về tình yêu và tình dục của Trung Quốc xưa, tuy tuyên truyền công hiệu của xuân
dược nhưng lại không tán thành việc sử dụng thứ thuốc kích thích này. Những nhân
vật sử dụng xuân dược đều thuộc phản diện và có kết cục thê thảm. Xuân dược
thường quan hệ mật thiết với quan điểm “Túng dục vong thân”, điều này là nhất
quán. Điển hình nhất là “Kim Bình Mai” đã cho Tây Môn Khánh mất mạng vì uống quá
lượng xuân dược của Phan Kim Liên; trong Triệu Phi Yến ngoại truyện, Hán Thành
Tổ cũng chết thảm vì uống xuân dược quá liều; Lý Thủ Bị trong Kim ốc mộng cũng
chết tương tự…
Tâm lý và xuân dược
Thái độ phủ định xuân
dược một cách phổ biến lại phù hợp với lý luận trong thuật phòng trung “xuân
dược tốt nhất là ái tình”, đây chính là vấn đề tâm lý. Ngay trong các tác phẩm
văn học Trung Quốc hiện đại vẫn mang tính kế thừa một cách tự giác về quan điểm
này. Như Trang Chi Điệp trong Phế đô là nhân vật vốn mắc chứng liệt dương, anh
ta không thể “làm ăn” gì với vợ mình là Ngưu Nguyệt Thanh - là một mỹ nhân,
nhưng bất ngờ anh ta lại “làm ăn” được với tình nhân Đường Nguyệt Nhi, đó là vì
anh ta với vợ đã không còn tình yêu, còn tình nhân là ngọn lửa đốt lên tình yêu
mới trong anh ta.
Ngay các loại “xuân dược hiện đại” là Viagra, Levitra
hay Cialis đều nhấn mạnh đến yếu tố tâm lý: Người sử dụng phải có ham muốn tình
dục thì thuốc mới có tác dụng. Xuân dược xưa rất chú ý đến “hiệu ứng ám thị” để
trở thành thứ thuốc đặc hiệu tốt nhất về tình dục, sau khi sử dụng, dưới tác
dụng tâm lý ám thị, thuốc sẽ có công hiệu, vì thế nó mới được mang màu sắc thần
bí. Những cuộc thử nghiệm về giả dược hiện nay đã chứng minh điều đó. |
Nỗi sợ của nam giới
Nam giới luôn biểu hiện năng lực tính dục, lấy đó làm vinh dự nhưng
đồng thời vẫn luôn ôm một nỗi lo sợ thâm sâu khi đối diện với khả năng tính dục
của nữ giới.
Trong thế giới động vật, chúng ta thường thấy một con đực cường tráng, mạnh
mẽ cai quản cả đàn, đồng thời nó cũng độc chiếm những con cái trong đàn để phối
ngẫu.
Con người tiến hóa từ động vật, những hình ảnh xa xưa vẫn còn lưu giữ lâu dài
trong ký ức. Vì vậy, trong xã hội cổ đại, khả năng tính dục là tượng trưng cho
sức mạnh và địa vị của nam giới. Chư hầu phải có “1 vợ, 9 hầu nữ”, thiên tử phải
có “ 3 cung, 9 phi, 27 thế phụ, 81 ngự thê”(theo Lễ ký – Hôn nghi), ngoài ra còn
tùy ý mua, cho, tặng.
“Kỹ năng nam tính” và xuân dược
Điều mâu thuẫn lớn nhất là nam giới luôn biểu hiện năng lực tính dục, lấy đó
làm vinh dự nhưng đồng thời vẫn luôn ôm một nỗi lo sợ thâm sâu khi đối diện với
khả năng tính dục của nữ giới. Nỗi lo sợ này mang tính phổ quát trên toàn thế
giới.
Trong rất nhiều truyền thuyết và tác phẩm cổ xưa, nữ giới bị miêu tả là dâm
đãng, không bao giờ thỏa mãn dục tính. Những người theo chủ nghĩa cấm dục căn cứ
vào đó tiến thêm một bước nhấn mạnh “tính tất yếu của cấm dục” vì nam giới vĩnh
viễn không thể nào thỏa mãn nữ giới vốn có “tính dục tà ác không giới hạn”.
|
Các phi tần của vua Hàm Phong đời
Thanh. | Đại biểu cho phe này là những người theo
chủ nghĩa cấm dục của giáo hội trung cổ châu Âu. Nhưng những người theo phe chủ
trương thỏa mãn tình dục thì lại căn cứ vào đó mà nhấn mạnh “tính tất yếu của
việc phát triển kỹ năng nam tính” thông qua dược liệu hoặc những phương pháp đặc
dị, đại biểu cho phe này là những người theo thuật phòng trung, xuân dược Trung
Hoa cổ đại.
Sự lo sợ của nam giới đối với nữ giới là có cơ sở. Xét từ góc độ sinh lý học,
trên đà tiến hóa của nữ tính đã vượt qua “tính phát dục định kỳ” của động vật,
trở nên mọi lúc đều có thể động tình ân ái, đồng thời nữ giới cũng không có thời
điểm “không đáp ứng tình dục” như nam giới, do đó có thể liên tục nhiều lần đạt
đến cao trào.
Mặt khác, về phương diện khả năng tính dục, nam và nữ còn không đồng bộ về
thời gian. Theo sinh lý thông thường, đỉnh cao tính dục của nam giới ở khoảng 20
tuổi nhưng lúc này thường thì anh ta chưa “công thành danh tựu”, khó hấp dẫn
phái nữ. Trong khi đó, đỉnh cao tính dục của nữ giới là từ 30 tuổi trở đi. Khi
nam giới lớn tuổi thì sự “không đồng bộ” xảy ra, xuất hiện hiện tượng “âm thịnh
dương suy”.
Lời dạy của đế sư
Nhưng ở nam giới thì khuynh hướng “đa phối ngẫu” cao hơn, luôn muốn độc chiếm
nhiều bạn tình, do đó mới đẻ ra cái thuật “thái âm bổ dương” trong tính giao.
Như thế, một kẻ yếu chống với nhiều người mạnh mà muốn không lo sợ sao? Chẳng
trách các nhà phòng trung thuật xưa xem tính giao như trận chiến đấu thật sự,
phải luyện phép “ngự nữ”(chế ngự nữ giới) và hình dung “như dây cương mục mà
điều khiển ngựa dữ, như sắp rơi xuống vực sâu mà phía dưới cắm đầy dao”(theo Y
tâm phương, quyển 28), còn nỗi sợ nào lớn hơn nữa?
Như đã nói, nam giới vẫn luôn mang mối lo tiềm ẩn về tính dục trước nữ giới,
luôn sợ bị xem là “kẻ yếu”. Vấn đề này từ xưa đã có và nay càng khốc liệt. Rất
nhiều bậc “tu mi nam tử” đã phải khóc thầm vì không thể thỏa mãn nhu cầu tình
dục của thê thiếp hoặc tình nhân. Đã sợ thì phải mưu tìm kế sách an toàn.
Có 2 con đường: Một là “làm suy yếu đối phương trước khi giao chiến”, trong
thuật phòng trung có chỉ dẫn vô vàn kỹ xảo nhằm làm cho người nữ tiến gần đến
mức cao trào trước, sau đó mới thực hiện tính giao, như vậy bên nam mới có hy
vọng chiến thắng. Hai là làm cho lực lượng mình thật mạnh mẽ rồi sau mới giao
chiến, phương pháp này lại chia làm 2 cách: Sử dụng các “chiêu thức” bế tinh, di
chuyển sức chú ý… hoặc là sử dụng “xuân dược” mà chúng ta đang nói, mục đích
dùng xuân dược cũng là làm cho bên nam “đánh lâu không bại”.
Các hoàng đế Trung Hoa xưa đều có nhiều phi tần, cũng như mọi đàn ông khác,
vua có nghĩa vụ “ban ân mưa móc” để tạo dòng “thánh chủng”. Vì vậy, các đế vương
thời cổ đại đều lo lắng không biết làm cách nào để lấy cái yếu của một nam chọi
với cái mạnh của nhiều nữ. Trong Ngọc phòng bí quyết dẫn lời Bành Tổ nói về tầm
quan trọng của “thuật ngự nữ”: “Hoàng đế “ngự” 1.200 cung nữ mà đạt đạo thành
tiên, tục nhân chỉ lo một vợ mà yểu mệnh, biết và không biết xa nhau biết chừng
nào!”.
Vấn đề này có chứng cứ rất rõ ràng, trong các thư tịch về thuật phòng trung
giai đoạn đầu đều thường áp dụng hình thức kể về việc hoàng đế đến thỉnh giáo
một bậc thầy về thuật ngự nữ, xuân dược hay thuốc tráng dương. Thầy có thể là
nam (như Đại Thành Tử) hoặc nữ (Tố Nữ), đều gọi là “đế sư”, tức thầy của hoàng
đế. Chẳng hạn trong sách Thập vấn (hỏi 10 điều) chép trên thẻ tre được khai quật
ở khu mộ nhà Hán, gò Mã Vương, có điều thứ hai là Hoàng đế hỏi Đại Thành về các
thuật làm thế nào để kéo dài quá trình giao hoan, làm sao để người nữ đạt đến
cao trào...
Những bài xuân
dược cổ xưa
Đại Thành Tử là nhân vật
truyền thuyết, có thuyết nói ông là đế sư của vua Thần Nông, có thuyết nói là
người thời Đại Vũ… Đại Thành Tử đã giới thiệu cho Hoàng Đế những loại thực phẩm
tráng dương, đại khái là khuyên nên ăn bá tử nhân (nhân của hạt tùng), uống sữa
bò để chống suy lão, đẹp dung nhan; muốn giao hoan nhiều thì phải thường ăn loài
phi cầm như chim sẻ, trứng chim, gà trống…
“Dưỡng sinh phương” được các
nhà khảo cổ phát hiện khai quật những ngôi mộ đời Hán ở gò Mã Vương, trong đó có
khắc 3 bài thuốc xuân dược có tác dụng tráng dương xưa nhất Trung Hoa - và có lẽ
xưa nhất thế giới, dược liệu được dùng chủ yếu là trứng chim, trứng gà. Đây là
một bài tiêu biểu: “Vào mùa xuân dùng trứng chim, đánh tan ra, tráng chung với
bột gạo, viên thành hoàn nhỏ, ăn nhiều rất tốt”. Đây chính là xuân dược thời kỳ
đầu, thành phần gồm có cả động vật và thực vật. |
|