Giang hồ tu hành khổ hạnh để hoàn lươngÍt ai ngờ được
vị sư đắc đạo này từng là một giang hồ chọc trời khuấy nước.
Hai chân khoanh hình chữ ngũ, lưng thẳng như
đặt vào điểm tựa, đôi mắt nhắm dần đi vào thinh không, thiền sư Thích Minh Thủy
chọn cho mình thế ngồi kiết già quen thuộc. Ông tu hành trên mỏm đá cao nhất của
đỉnh Thị Vải (núi Thị Vải, xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, Vũng Tàu), giữa bốn bề
chỉ có mây và gió núi.
Vị sư này tự hào ví đấy là điểm nối giữa hai
múi trời và đất, nơi chưa thoát trần thế nhưng cũng chớm đến cảnh tiên. Quanh
năm, sư Thích Minh Thủy chỉ cần một dải áo cà sa màu nghệ vắt lên thân hình
xương xẩu nom khổ hạnh.
Người ta bảo, nếu muốn đạt được dung mạo như
thế chỉ có những ai chưa từng vấy bụi trần, thành tâm. Thế nhưng, sư Thích Minh
Thủy lại như một ngoại lệ. Trước khi trở thành vị chân tu, ông từng là một kẻ
giang hồ chọc trời khuấy nước, gây bao tội lỗi.
Đào ngũ vì thèm ma túy Thầy Thích Minh Thủy có tên khai sinh là Phạm
Văn Hưởng, xuất thân trong gia đình truyền thống nho giáo ở Thái Bình. Cha là
ông là một thầy đồ. Gia đình có chỉ có hai chị em. Tuy không phải thành phần
giàu có nhưng so với các gia đình khác thì nhà thầy Hưởng cũng thuộc dạng có của
ăn của để. Cha ông luôn tỏ ra nghiêm khắc và rất ý thức cho con cái học hành đến
nơi đến chốn.
Đặc biệt, Hưởng là con trai độc nên luôn là
niềm kỳ vọng của cả gia đình. Sinh thời, người cha luôn quan niệm, bằng mọi cách
phải dạy Hưởng những khuôn phép mẫu mực của đạo Nho. Ông hy vọng cậu con trai
của mình sẽ trở thành một người hoàn thiện nhất.
Tuy nhiên, từ nhỏ Phạm Văn Hưởng đã là đứa trẻ
nghịch ngợm. Gia đình càng bắt học bao nhiêu, cậu lại tỏ ra chống đối bấy nhiêu.
Thay vì chuyên tâm mài dùi kinh sử, Hưởng chỉ vờ vâng dạ trước mặt cho qua
chuyện. Sau đó, “nghìn lẻ một kế“ chuồn để tụ tập đám bạn, thỏa chí ăn chơi.
Việc ham chơi khiến Hưởng học hành giảm sút. Năm lên lớp 10, Hưởng đã biết bỏ
nhà ra đi bụi.
Năm 1970, ngày trường tổ chức kỳ thi tú tài (để
lên lớp 12 ngày nay), cậu bé bỏ nhà đi chơi mấy ngày. Lời cha dặn trước khi nhắm
mắt, phải học thành người, giờ đây Hưởng quên sạch. Không lâu sau, có lệnh tuyển
quân của chính quyền bên kia chiến tuyến, Hưởng nộp đơn tham gia với ý nghĩ: Vào
quân đội được dùng súng tự do, được học võ để đánh người.
Vào hàng ngũ lính không lâu, Hưởng đã nghiện
bạch phiến. Đây là thứ mà binh lính Mỹ mang sang Việt Nam dùng rất phổ biến lúc
bấy giờ. Đến bây giờ, sư Thích Minh Thủy nhớ lại: “Tôi chính thức nghiện hút từ
năm đầu tiên nhập ngũ ở Nha Trang, lúc 17 tuổi. Cuộc đời tôi bắt đầu trượt dài
trong bóng đêm tội lỗi từ đó”.
Ngày cha mất, Hưởng có quỳ lạy trước mặt, hứa
sẽ vâng lời chị gái, sẽ gắng học hành thành tài. Thế nhưng sau đó không lâu, hắn
như chim sổ lồng, phá luôn rào cản khuôn phép tam cương, ngũ thường mà cha mình
ngày trước ràng buộc.
Vào thời điểm này, phong trào Hip-pi (phong
trào ăn chơi trụy lạc, hưởng thụ theo Chủ nghĩa Hiện sinh) từ Mỹ du nhập vào lối
sống của giới trẻ miền Nam Việt Nam, Hưởng là số thanh niên “thức thời” và
hưởng ứng một cách nhiệt thành. Tuy trong môi trường quân đội nhưng thực chất
Hưởng vẫn được ăn chơi thỏa thuê. Các quán bar, vũ trường nơi nào có khách Tây,
hắn đều lui tới. Nhưng thời gian quân dịch không kéo dài được lâu. Hưởng lại gây
chuyện đánh nhau, phá phách rồi cuối cùng đào ngũ.
Từ người ăn học trở thành kẻ cướp Sau khi mãn án một năm tù treo, chính quyền lại
tiếp tục triệu tập hắn vào quân ngũ. Chị hắn phải mang bán những khâu trang sức
cuối cùng để lo thẻ căn cước (chạy tuổi trốn quân dịch) cho em mình. Người chị
hi vọng rằng được ở nhà, hắn sẽ tu chí làm.
Tuy nhiên, Hưởng ra sức phá phách rồi chuyển
sang nghề buôn ma túy để thỏa mãn cơn nghiện của mình. Từng sống ở các căn cứ
quân đội Mỹ nên hắn biết ở đó nhu cầu dùng ma túy của lính Mỹ rất cao. Anh ta
nghĩ: “Nếu có nguồn cung cấp thì đó sẽ là món lợi kếch sù”. Qua một người bạn,
Hưởng tìm được mối tiêu thụ ở căn cứ hải quân ở Rạch Sỏi (Rạch Giá, Kiên
Giang).
Một tuần 2 - 3 lần, hắn dùng xe máy riêng của
mình trực tiếp lấy hàng ở Tam Hiệp (Đồng Nai). Những chuyến đi lời một gấp đôi,
tiền bạc trong túi Hưởng luôn rủng rỉnh. Dĩ nhiên, kiếm được bao nhiêu Hưởng đều
“đốt” theo làn khói trắng. Nhớ lại khoảng thời gian trụy lạc, sư Minh Thủy cho
biết: “Khi ấy, thực sự không thứ gì mà tôi không nhúng vào. Nếu những người
nghiện họ chỉ dùng chuyên một thứ thì tôi dùng gấp 3 - 4 lần”. Vừa rượu chè, vừa
ma túy, vừa gái nên hắn sớm thân tàn ma dại.
Những năm cuối thập kỷ 80, Hưởng đã là một con
nghiện nặng. Ký ức hãi hùng thời đó bây giờ sư Thích Minh Thủy vẫn chưa thể quên
được. Có tiền, Hưởng lại lên đường đi ăn chơi và ra về khi thân hình xiêu vẹo.
Nhìn người em chìm trong guồng quay ma túy, người chị bao lần khóc đến cạn dòng
nước mắt. Chị gái Hưởng quyết định mai mối cho em trai một tấm vợ với hi vọng,
có gia đình hắn sẽ tu tính nên người.
Nói là lấy vợ, nhưng thực ra, Hưởng chỉ gật đầu
cho qua chuyện. Vợ hắn là một cô gái hiền lành, chịu thương chịu khó. Thế nhưng,
ngựa lại quen đường cũ. Năm lần bảy lượt vợ khóc hết nước mắt khuyên răn, Hưởng
đều gạt phắt. Hắn còn tuyên bố rằng: “Con mày sinh ra mày nuôi, hơi sức đâu tao
lo”. Nói xong, Hưởng đứng dậy, bỏ nhà ra đi với hai bàn tay trắng.
Những cơn nghiện ngày đêm dày vò thể xác khiến
hắn phải nghĩ kế kiếm tiền. Ngày đó, Hưởng có người bạn tên là Phước (nay đã
chết vì nghiện) ở Hóc Môn (TPHCM). Người này cũng thuộc hạng tù tội, phá phách.
Gia đình Phước không chịu đựng được nên từ mặt. Hai con nghiện gặp nhau như cá
gặp nước, cùng bày mưu tính kế dọa người cướp tiền. Phước bán luôn chiếc xe máy
của nhà rồi mua một khẩu súng côn (Con - 9 của Pháp) và hai băng đạn 30 viên với
giá hai cây vàng.
Hưởng là người từng tham gia quân ngũ nên được
phép giữ súng. Sau một hồi ngẫm nghĩ, Phước thủ thỉ, trong ấp có một đôi vợ
chồng suốt ngày đi gom tiền hụi. Cứ vào tờ mờ sáng họ đều ngang qua khu vực vòng
xuay An Sương ghé lại thu tiền. Sau khi nghiên cứu kỹ địa bàn, một kế hoạch được
hai tên nghiện vạch ra. Hưởng sẽ là người cầm súng. Khi đoạt được túi, lấy được
xe, Phước sẽ có nhiệm vụ lái để cả hai cùng tẩu thoát.
Sáng 13/7/1981, cả hai quyết định hành động.
Trước khi đi, cả hai cùng lên động ma túy quen thuộc ở Hóc Môn làm một tép lấy
dũng khí. Khi đã phê thuốc, cả hai cùng nhau đi bộ đến địa điểm đôi vợ chồng kia
vẫn hay đi qua. Hưởng lận súng vào quần cùng Phước ngồi bên góc đường nín thở
chờ mồi. Một lúc sau, đằng xa có ánh đèn pha xe máy đang đi tới. Hưởng dụi mắt
nhìn rõ, đích thị là đôi vợ chồng đang mang bịch tiền thu hụi về đang từ xa tiến
lại.
Hai vợ chồng vừa dừng xe, Hưởng nhanh chân bước
tới. Một tay rút khẩu súng dấu dưới áo, lên nòng dí vào lưng của người chồng,
rồi miệng uy hiếp. Hắn nhanh tay cướp bọc tiền còn Phước lao vào dắt xe nổ
máy.
Thế nhưng, nhân tính không bằng trời tính,
chiếc xe máy vừa chay được khoảng 10m thì khựng lại vì hết xăng. Cũng đúng lúc
này, đôi vợ chồng hô hoán cầu cứu. Hai tên cướp lúng túng vứt xe chạy thục mạng
vào làng tìm chỗ trốn. Đúng lúc này có hai anh công an đang đi tuần, thấy vậy
lao vào khống chế. Bị dồn vào bước đường cùng, Hưởng liền rút súng nhằm vào hai
đồng chí công an bóp cò, nhưng rất may lại nhằm phải viên đạn thối.
Thấy cướp có súng, hai người công an buông ra
tránh đạn. Cả hai tiếp tục chạy thục mạng, vào làng thì bị bao vây, lúc này ma
túy trong người cũng tan hết, cẳng chân rũ rượi, người mềm nhũn. Thấy không thể
thoát, Hưởng liền ném súng xuống ao bèo phi tang, cả hai chấp nhận sa
còng.
|