Công viên quả mãn nói tắt là công quả, nhưng từ này đã bị lạm dụng nhiều. Những người lười biếng vào chùa nói là công quả, hay nói công quả khiến người ta nghĩ đến làm việc không năng suất và không có thù lao; đây là sai lầm lớn.
Qua a tăng kỳ kiếp thứ hai, đứng ở đỉnh cao của vật chất quan sát rõ tất cả
vật chất, nhưng thấy được tất cả các pháp là điều khó vô cùng, vì các pháp luôn
biến đổi, cái gì nói rồi thì nó đã trôi qua, còn chấp pháp sẽ phạm sai lầm. Vì
vậy, Ngài Nhật Liên dạy chúng ta phải biết thêm giáo, cơ, thời, quốc. Công quả chủ yếu chỉ cho sự tu hành của chúng ta là có công tu thì phải có
quả chứng. Còn tu không kết quả, hay làm việc không năng suất thì không được coi
là công quả. Chế tác tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới ở
Hải Dương Công viên quả mãn gợi chúng ta nghĩ đến các Đức Như Lai có quá trình tu hành
và kết thành quả Bồ đề. Quá trình tu của chúng ta mà Phật thường dạy là phải
trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu nhân. Một a tăng kỳ kiếp dài vô số, không phải một
kiếp người. Một kiếp người nâng lên thành một tiểu kiếp, một trung kiếp, một đại
kiếp cho đến a tăng kỳ kiếp là thời gian dài hết số, nhưng đánh dấu mốc từ khi
phát tâm Bồ đề và vượt qua được tất cả phiền não, trần lao, nghiệp chướng là đạt
được một a tăng kỳ kiếp thứ nhất; nhưng cũng phải qua bốn giai đoạn. Giai đoạn một, trụ được pháp Không, tức hoàn cảnh không còn tác động, chi
phối chúng ta, nếu có khó khăn đó thì phải vượt qua. Vì vậy, con đường của Phật
đi rất khó và rất dài. Chúng ta đi theo con đường của Phật, biết tất cả mọi việc
xảy ra trên cuộc đời này đều là sinh diệt, là giả tạm, cho nên chúng ta không
quan tâm, để tâm chúng ta lắng yên, không buồn giận, không lo sợ; đó là giai
đoạn một, hay a tăng kỳ kiếp thứ nhất chứng sơ quả Tu đà hoàn, không bị xã hội
và thiên nhiên chi phối thì đối với việc no đói, hay trời đất nóng lạnh, chúng
ta cũng bình thường, người kính trọng hay không cũng được. Cho đến khi mất mạng
sống cũng không băn khoăn, vì đã có mạng sống thực của đạo hiện ra và khởi tu từ
mạng sống này, hay còn gọi là kiến tánh khởi tu. Nếu không được như vậy, vẫn là
người tu trong mộng. Bấy giờ, người tu không lấy thân tứ đại làm mạng sống, không lấy sự sống vật
chất làm mạng sống, nhưng họ sống với đạo đức và trí tuệ, vì đó là sinh mạng của
họ. Thân là đạo đức và tâm là trí tuệ, lúc ấy, đời sống vật chất của ta biến mất
thì đời sống đạo đức hiện ra; nhưng đừng tưởng rằng cuộc sống vật chất mất mới
hiện thân đạo đức. Tuy cũng còn thân vật chất, nhưng nó đã chuyển hóa thành Pháp
thân. Thân vật chất không tốt xấu, sạch dơ, nhưng tốt xấu sạch dơ tùy thuộc con
người chúng ta. Vì vậy, thân vật chất của mọi người giống nhau, nhưng cuộc sống
của mỗi người không ai giống ai. Ý thức như vậy, chúng ta cải thiện vật chất, chuyển hóa nó thành tốt để tu,
còn bỏ vật chất để tu là tìm lông rùa sừng thỏ. Một Phật tử cúng dường một cành
hoa lan bằng đất sét, từ đất sét mà chuyển thành hoa; cũng giống như vậy, từ
thân vật chất này, nhưng chuyển nó thành thân đạo đức. Người có đạo đức có khả
năng cảm hóa người khác. Tu hành, làm sao chúng ta trở thành người đạo đức,
thành biểu tượng cho người nương theo được an lạc. Chuyển thành thân đạo đức mới là thân để chúng ta tu hành, tiến lên gặt hái
được hoa và quả là Bồ tát và Như Lai. Giai đoạn một chúng ta tu là chuyển thành
thân đạo đức và kế tiếp là chuyển thành trí tuệ, gọi là giới thân huệ mạng. Lấy
trí tuệ làm mạng sống, không phải mạng sống là thân này, nhưng trí tuệ cũng nằm
trong thân này. Vì vậy, chúng ta chuyển thân tứ đại thành đạo đức và chuyển hóa
tám thức trở thành bốn trí là Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Sở tác trí
và Đại viên cảnh trí. Lấy bốn trí này làm mạng sống. Ngày nào trí này không có
là mất mạng. Trí còn sống là đối cảnh, trí sanh. Bốn trí này là mạng sống của chúng ta,
cho nên chúng ta giữ mạng thứ nhất là giữ Diệu quan sát trí. Chưa tu, trong đầu
chúng ta tính toán đủ thứ, nhưng không đúng gì cả. Diệu quan sát trí là thấy
chính xác bằng tâm, tức mạng sống của người tu là tâm, nên thấy sự vật bằng tâm
là thấy thẳng tâm người. A la hán chứng tha tâm thông là dùng tâm mình thấy tâm
người khác. Chúng ta giữ tâm này làm mạng để sống, từ đó người tu đạt được trí
này, không quan tâm đến bên ngoài, nhưng không có gì không biết. Được công viên quả mãn một là được thân đạo đức và mạng trí tuệ và sử dụng
hai thứ này để tiến bước trên đường đạo. Chưa có đạo đức và trí tuệ thì tu cái
gì cũng là nấu cát muốn thành cơm, không thể có kết quả tốt đẹp. Trên bước đường tu, vượt qua giai đoạn một, khó khăn nhất thì ba giai đoạn
còn lại dễ dàng hơn. Việc quan trọng là sử dụng được giới thân huệ mạng và từ
đây khởi tu để chứng A na hàm và A la hán. Đạt quả A na hàm là đứng trên đỉnh
cao của thế giới vật chất. Lúc trước tu, rời vật chất để có đạo đức và trí tuệ;
nhưng nay có trí tuệ và đạo đức, mới đứng ở đây quan sát xuống được cùng tận
trời đất gọi là Ngũ tịnh cư thiên là tầng trời cao nhất không phải ở đâu, nhưng
ngay trong giảng đường, hay trong địa ngục cũng cao nhất, vì là người cao thượng
thì ở đâu, họ cũng cao thượng. A na hàm vô phiền, vô nhiệt, thiện kiến, thiện hiện và sắc cứu cánh, nghĩa là
chứng được quả này thì đứng trên vật chất quan sát tất cả muôn loài từ địa ngục
đến thiên đường. Công viên quả mãn một ta được và ở địa vị A la hán dùng đạo đức cảm hóa và
trí tuệ dìu dắt người. Chưa đắc A la hán mà dẫn người là người mù dẫn người đui.
Tuy nhiên, theo kinh Pháp Hoa, các thầy chưa đắc Thánh quả cũng độ được
người khác. Phật ví như thái tử mới vừa sanh chưa biết gì, nhưng có thái tử thì
các quan đại thần phải làm; thái tử không làm, nhưng thiếu thái tử không
được. Cũng vậy, các thầy chưa đắc A la hán, nhưng độ chúng sinh được, vì họ xuất
gia, mặc áo Phật, nói lời của Phật, nghĩa là họ thay cho Phật, nên Phật tử phải
nghe. Thực tế cho thấy người xuất thân giai cấp thấp nhất trong xã hội, nhưng
xuất gia rồi, người sang trọng cũng phải chắp tay xá họ và gọi là thầy. Họ làm
quan, làm tướng, nhưng cha mẹ qua đời, họ đến chùa gặp thầy cũng phải bạch thầy
xin cầu siêu. Bình thường kiến thức của người thầy và vị trí xã hội của người
này cách xa, nhưng khi cần đến việc cầu nguyện thì khoảng cách xã hội không
còn. Ngài Đường Huyền Trang diễn tả ý này là : Phàm Tăng bất năng giáng phước, dục
cầu phước tiên thỉnh phàm Tăng, thầy không có khả năng giáng phước, nhưng muốn
cầu phước phải thỉnh phàm Tăng, vì vị này thay Phật, mặc áo Phật, nói lời Phật,
đó là hiệu quả của hình thức; tuy nhiên, người tu biết từ đây phát triển phần
nội lực là điều mà kinh Đại thừa muốn nhấn mạnh, còn chấp vào hình thức không
thôi để tự mãn sẽ bị đọa. Đức Phật xuất thế ở Ấn Độ 2.500 năm trước, thời gian và quốc độ đã khác.
Chúng ta sanh ở thời kỳ này và quốc độ này hoàn toàn khác, tức sự vật luôn biến
đổi, nên chúng ta cần có trí tuệ nhìn thẳng vào sự thật biến đổi thế nào thì
thấy đúng như thế. Và Phật dạy không nên chấp lời nói, vì sự vật luôn chuyển
biến về quá khứ và con người luôn chuyển hướng về tương lai. Vì vậy, ở lộ trình
hai, sự vật không cố định, nhưng sự vật muôn màu muôn vẻ, thay đổi không ngừng,
nên trí tuệ chúng ta cũng phải thay đổi không ngừng, cho đến khi trí tuệ của
chúng ta chính xác là mãn a tăng kỳ kiếp thứ hai. Từ a tăng kỳ kiếp thứ nhất lên đến đỉnh cao nhất của thế giới vật chất biến
đổi, tiến sang a tăng kỳ kiếp thứ hai thấy đúng và sang a tăng kỳ kiếp thứ ba,
thâm nhập vào thế giới luôn biến đổi không ngừng để nghiêm tịnh thế giới đó; nói
cách khác, là mượn cảnh huyễn để độ người trong mộng. Tất cả chúng ta đang ở thế
giới sanh diệt, nhưng nếu bị lệ thuộc vào cảnh huyễn mộng đó thì sẽ tạo khổ đau
kế tiếp không dứt, còn chúng ta tu hành vào đây để chuyển thành cuộc sống an
lạc, không khổ đau. Trời đất rộng mênh mông, nhưng có duyên thì cũng có ngày gặp lại. Trong Pháp
giới bao la, vô số tỷ người, chúng ta tu hành tin rằng trong kiếp tái sanh,
chúng ta thường gặp lại nhau. Tôi sang Nhật gặp Hòa thượng Ito đỡ đầu tôi. Ngài
nói rất dễ thương là mình gặp nhau hôm nay không phải lần đầu, nhưng đã từng gặp
nhau trong quá khứ rồi, từng hành Bồ tát đạo, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau. Thật vậy, trên cuộc đời này, có những người mà ta mới gặp lần đầu, có những
người mà ta đã gặp, đã chia sẻ. Trong kiếp luân hồi mênh mông mà gặp được pháp
lữ đồng hành rất khó. Tôi gặp vị Lạt ma nói các Lạt ma tin tái sanh, nhưng tôi
không dám tái sanh, vì ở Tây Tạng khổ quá, không muốn tái sanh nữa. Tôi nói Ngài
không tái sanh ở Tây Tạng thì tái sanh ở Việt Nam hay
Thái Lan, v.v… cũng được vậy. Chúng ta thâm nhập thế giới đó là thế giới tâm thức để nghiêm tịnh. Đức Phật
cũng từng thâm nhập thế giới này để độ nhiều người. Đức Phật Thích Ca nói rằng
Ngài từng tu từ thời Phật Oai Âm Vương, đến thời mạt pháp của Phật Oai Âm Vương
có những Tỳ kheo tăng thượng mạn kết hợp với giới cư sĩ cậy quyền thế. Họ tu
sai, nhưng ai nói đến thì họ trị thẳng tay, không tha, trong khi người tu phải
lóng nghe, suy nghĩ để sửa đổi những sai lầm. Ở Nhật Bản, có Ngài Nhật Liên ra đời, bấy giờ có Ngài Lương Khoan là quốc sư
được vua chúa kính nể. Quốc sư này cũng nghĩ sai lầm rằng ông đúng, các thầy
khác không đúng. Lúc đó, Ngài Nhật Liên chưa có uy tín, là Tăng sĩ trẻ, nói một
câu rất mạnh là tất cả quốc sư lãnh đạo đều rơi vô tà đạo, sẽ đọa địa ngục.
Lương Khoan giận không chịu nổi, mới vào triều đình thưa với người chấp quyền là
Thủ tướng rằng ngày nào Nhật Liên còn sống thì bần tăng ăn không ngon, ngủ không
yên. Nhật Liên nói tội nghiệp cho Lương Khoan, tên Lương Khoan mà lại bất lương,
tinh thần quá hẹp hòi, lên đến Hòa thượng mà còn muốn ăn ngon ngủ yên. Tôi học
được bài học vô giá này. Đức Phật nói vào thời mạt pháp của Phật Oai Âm Vương, Ngài đã gặp những tu sĩ
tăng thượng mạn, nhưng Ngài có thái độ khoan dung, dù họ nói xấu, đánh Ngài. Khi
Ngài thành Phật Thích Ca, những người này đều trở thành đệ tử của Phật, 500 vị
này trở thành Bồ tát, đứng đầu là Bạt Đà Bà La Bồ tát. Thâm nhập để nghiêm tịnh là giai đoạn thứ ba tu hành thì tất cả những người,
từ người ủng hộ cho đến người chống đối hay thờ ơ đều trở thành bạn tốt. Đối với
người ủng hộ mình là pháp lữ đồng hành đã tu chung từ kiếp quá khứ rồi, nên nay
gặp lại, họ chấp nhận và chia sẻ được, chúng ta nên trân trọng, giữ gìn những
bạn tốt này. Trong kiếp quá khứ, chúng ta đã nghiêm tịnh được pháp hội đạo tràng
này, không phải tự nhiên mà có. Đối với người không chống, không theo cũng còn trong Pháp giới. Họ không quan
tâm đến ta, nhưng ta phải quan tâm đến chúng kết duyên này để nghiêm tịnh. Ta
phải làm tất cả mọi việc để họ phát tâm Bồ đề. Điều này trong kinh Phổ
Môn có nói Bồ tát Quan Âm làm đồng nam đồng nữ để người phát tâm, Ngài cũng
làm. Thực tế chúng ta thấy có những bà phu nhân khuyến hóa chồng biết đạo
đức. Giai đoạn ba, thâm nhập để nghiêm tịnh Pháp giới, nghĩa là người chưa phát
tâm, ta làm cho họ phát tâm, người đã phát tâm, ta làm cho họ tốt hơn và người
chống đối, chúng ta vô hiệu hóa và giúp họ cải ác làm thiện. Và khi làm được ba
việc này, người tốt thương ta hơn, người chưa phát tâm và người chống đối cũng
thương ta, là công viên quả mãn.
+ PHẢN HỒI CỦA BẠN ĐỌC VỀ BÀI VIẾT:
- Nơi lần đầu Mẫu Liễu giáng sinh! (30/10/2011)
- Khám phá những ngôi chùa cổ trên đất Thăng Long (28/10/2011)
- Nhân duyên của giàu và nghèo (27/10/2011)
- Có phải cái chết đã nhẹ tựa lông hồng? (25/10/2011)
- Liên Hoa Đài - hồn vía Thăng Long xưa (25/10/2011)
- Những câu chuyện niệm Phật Dược Sư được cảm ứng (22/10/2011)
- Sứ giả tình thương (20/10/2011)
- Thuyền sen qua chốn bụi hồng (18/10/2011)
- Thực hư 'tiên nữ' xuất hiện ở chùa cổ nhất Hà thành (17/10/2011)
- Đạo Phật và nghệ thuật hóa giải sân hận (14/10/2011)
Video
Liên kết hữu ích
Tỷ giá ngoại tệ
Mã | Mua | Bán |
---|