Lượt thăm:240946290   Đang Online: 690

Số lượt xem: 2398
Gửi lúc 07:27' 14/12/2011
Nghề nghiệp chân chánh

Một số người hiểu lầm nghề nghiệp chân chánh là chánh kiến trong Bát chánh đạo. Trong Bát chánh đạo có chánh nghiệp, chứ không có nghề nghiệp; vì đối với các vị Thánh La hán, không đặt vấn đề nghề nghiệp.

Thật vậy, đã xuất gia, Phật quy định Sa môn không được giữ tiền bạc, của báu, không được làm nông nghiệp, không được buôn bán và cũng không được tham gia vào chính sự.

Như vậy, Đức Phật đã đặt hàng Thánh La hán nằm ngoài cuộc đời, gọi là “Cái thân ngoại vật”, tức người tu xuất thế, từ cuộc đời lần ra khỏi cuộc đời. Tổ Quy Sơn diễn tả ý này là “Tâm hình dị tục”, tức tâm và hình tướng của người tu khác với người thế gian. Tuy nhiên, nếu chấp chặt như vậy dễ rơi vô cuộc sống thụ động. Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy các vị Thánh La hán phải phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo, mới thật là A la hán. Còn tự coi mình là A la hán là rớt vô hàng tăng thượng mạn.



Phật quy định Sa môn không được giữ tiền bạc, của báu, không được làm nông nghiệp, không được buôn bán và cũng không được tham gia vào chính sự


Ở đây, tôi muốn triển khai việc làm của A la hán thật theo kinh Pháp Hoa và của các hành giả tu Pháp Hoa. Các A la hán hành Bồ tát đạo, dấn thân vào đời độ sanh thì trở thành Bồ tát đa dạng, tức cuộc đời này có bao nhiêu hình thái sinh hoạt thì có bấy nhiêu Bồ tát. Vì vậy, trong tầng lớp nào cũng có Bồ tát, cho nên có nghề nghiệp, hay chánh nghiệp. Từ đó, chánh nghiệp của A la hán hành Bồ tát đạo khác với chánh nghiệp của người chưa là A la hán.

A la hán phát Bồ đề tâm dấn thân vào cuộc đời, làm tất cả mọi việc, nhưng tâm các Ngài ở Niết bàn, không vướng bận cuộc đời. Điều này cho chúng ta thấy người thế gian làm việc khác với A la hán làm việc. Người thế gian làm việc thì luôn luôn bị kẹt với công việc; cho nên việc càng lớn và càng nhiều, họ càng bị đau đầu, mất ăn, mất ngủ. Một ngày lo lắng công việc, lao đầu vào cuộc sống xã hội, rất dễ bạc đầu; đó là người thế gian sống ở thế gian và lo việc thế gian.

Nhưng Phật pháp đưa ra mẫu người nhập thế là bắt đầu phát tâm xuất gia tu hạnh xuất thế, ra khỏi cuộc đời; vì nếu còn là chúng sinh ở thế gian sẽ bị nghiệp ràng buộc, thì không được an lạc giải thoát. Bởi vì ta càng làm, thì phiền não dễ phát sinh và mọi người cũng không vui. Người đời nói: “Làm ơn mắc oán”; không làm thì trở thành tiêu cực, còn làm thì người phiền và chúng ta cũng phiền, vì chúng ta chưa đắc đạo, chưa biết cách làm. 

Vì vậy, Đức Phật thương xót mà xuất hiện trên cuộc đời để dạy chúng ta cách làm giải thoát. Phật dạy rằng trong thế giới này thực không có sinh tử, phiền não, khổ đau; nhưng vì vô minh nghiệp chướng ngăn che, nên thấy có sinh tử. Tất cả mọi người khổ đau vì vô minh hướng dẫn họ làm, nên càng làm càng khổ và người khác cũng bị khổ theo. Vì vậy mà Phật dạy nên làm việc theo trí tuệ chỉ đạo. Phật có trí tuệ chỉ đạo hành động, lời nói và nhận thức. Từ đó, Ngài muốn truyền trao kinh nghiệm này cho chúng ta, là cốt lõi của đạo Phật.

Tất cả mọi người trên cuộc đời bị vô minh ngăn che nhiều kiếp, cho nên muốn nhìn thấy đúng sự thật của cuộc đời thì phải gạn bỏ được vô minh, tức không bị ngũ uẩn ngăn che là ra khỏi Nhà lửa tam giới, ra khỏi phiền não trần lao. Vì vậy nên phải từ bỏ cuộc đời, xuất gia học đạo để không bị ràng buộc bởi thế gian. Riêng tôi nhận thức điều này rất rõ, tôi được như ngày nay là nhờ 60 năm hành đạo, từ bỏ cuộc đời, làm Sa môn sống ngoài tam giới, không bị thế sự ràng buộc quấy rầy, nên không lệ thuộc vào cuộc sống, mới thấy được đạo, giúp cho hành động không sai lầm là được chánh nghiệp. 

Vì biết, nên không làm; còn không biết, làm việc không đáng làm là tự chuốc họa vào thân, hay Tổ thường quở là nấu cát muốn thành cơm.

Đức Phật đề cao hạnh xuất thế ở Lộc Uyển và các vị Sa môn theo Phật nhờ hạnh này, cuối cùng chứng được Bát chánh đạo, nghĩa là các Ngài là người tốt đứng ngoài cuộc đời, không phải nhập cuộc. Vì đứng ngoài cuộc đời, mới không bị cuộc đời chi phối; đứng ngoài công việc, nên không bị công việc ràng buộc. 

Tuy nhiên, Phật khuyên các vị Thánh A la hán bước sang giai đoạn hai, nên phát Bồ đề tâm, dấn thân vào cuộc đời để giáo hóa độ sanh, mới được giải thoát thật sự. Còn các vị La hán giải thoát ở giai đoạn tu Thanh văn thừa chỉ là trụ Hóa thành mà thôi. Thật vậy, ở chùa, ở núi tu hành thì không có vấn đề gì; nhưng bước vào cuộc đời, lâm vào tình trạng rối bời, vì không giải quyết được vô số vướng mắc; cho nên giải thoát ở giai đoạn trước chỉ là giải thoát ngoài cuộc.

Qua giai đoạn hai, hành Bồ tát đạo phải giải thoát ngay trong cuộc đời. Mô hình giải thoát này được Phật nói đến trong tất cả kinh Đại thừa, đặc biệt là kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, kinh Thắng Man rất quan trọng để chúng ta nhận ra tinh thần giải thoát, từ đó mới nhận ra được chánh nghiệp thật sự của Đại thừa. Chánh nghiệp của Tiểu thừa là không giữ tiền của, không làm nghề nông, không làm kinh doanh, không tham gia chính trị; nhưng chánh nghiệp của Đại thừa là phải làm vua, làm quan, làm tướng, làm thương gia, v.v… phải làm đủ mọi việc, nhưng vẫn được giải thoát. Vì vậy, đối với mô hình hành đạo này, chúng ta thường dùng từ “Cư sĩ”, nhưng thực chất của cư sĩ như vậy là Bồ tát :

        Cư tài chi sĩ

        Cư gia chi sĩ

        Tại gia chí Phật đạo giả.

Nghĩa là người chí Phật đạo là đã đắc quả A la hán, rồi hiện thân lại cuộc đời này để làm đạo dưới hình thức cư sĩ. Vì vậy, không phải tất cả cư sĩ đều là cư sĩ chí đạo, vì Tổ Quy Sơn dạy rằng : Vọng tình dị tập chí đạo nan văn. Bạt tục siêu quần, vạn trung vô nhất. Nghĩa là người chí đạo thì một vạn người chưa thấy được một người đạt được đỉnh cao trong đạo, thể hiện được nghĩa sâu sắc nhất của Phật pháp. Tôi cũng không dám nhận mình là cư sĩ chí đạo. Duy nhất có cư sĩ Duy Ma là người chí đạo, tức đã đắc đạo với Phật A Súc ở phương Đông, nhưng Ngài hiện thân làm cư sĩ ở thành Tỳ Da Ly.

Như vậy,  phải quan sát con người ở hai mặt. Người thì ai cũng như ai, nhưng không ai giống ai, vì mặt bên trong khác nhau, bởi mỗi người có hoàn cảnh riêng, suy nghĩ riêng; lấy hoàn cảnh người này đặt cho người khác không thể đúng. Đọc kinh Thắng Man, chúng ta thấy lúc hoàng hậu Thắng Man đang cúng dường Phật và Thánh chúng ở tịnh xá thì ở triều đình, vua và hai người con của bà bị kẻ soán ngôi giết chết. Xá Lợi Phất thấy bà vẫn điềm tĩnh, nên tội nghiệp và an ủi bà. Bà Thắng Man hỏi Xá Lợi Phất rằng Ngài có chí đạo chưa? Nếu chí đạo thì thật tướng các pháp và nhân quả đã hiển bày rõ ràng, có gì mà phải buồn khổ. 

Cho nên, nghiệp quả của chồng và con bà đã tới, phải chết như thế, bà biết trước là chí đạo và bà làm theo trí tuệ chỉ đạo. Nếu bà ở nhà thì đã bị chết theo; nếu còn lòng tham thì ôm giữ của cải cũng mất mạng mà chẳng giữ được. Vì vậy, bà đem của cải cúng dường để gieo nhân lành cho đời sau.

Lấy tâm trạng của mình mà khuyên người là sai, đừng thuyết pháp theo cách đó, phải thấy đạo, tức thấy được tâm chúng sinh nghĩ gì, muốn gì, làm được gì thì theo đó mà dạy. Hai mẫu người chí đạo là Thắng Man và Duy Ma để có hai bộ kinh là kinh Duy Ma và kinh Thắng Man.

Thắng Man biết trước việc xảy ra, vì bà là Bồ tát tái sanh. Bồ tát tái sanh vào gia đình nông dân, hay vua chúa, hoặc buôn bán để làm gì, nghĩa là các Ngài trước khi sanh đã có mục tiêu. Còn chúng ta là do nghiệp dẫn đi thọ sanh, cho nên chỗ mình không muốn thọ sanh, nhưng vẫn phải sanh vô. Tất cả chúng sinh phải khổ đau vì đều do nghiệp dẫn thọ sanh. Bồ tát do nguyện, không phải do nghiệp sanh lại cuộc đời. 

Vì vậy, Bồ tát đã chuẩn bị đầy đủ để đi vào đời, làm những việc mình muốn. Có thể hiểu Bồ tát xuất hiện trên cuộc đời giống như diễn viên trên sân khấu. Diễn viên biết phải khóc, phải cười, phải nói thế nào trên sân khấu. Cũng vậy, Bồ tát khóc hay cười đều là bài thuyết pháp cho cuộc đời. Chứ không phải Thị Kính bị chồng chê, rồi vô chùa ở, tu chơi chơi thành Phật sao được. Đây là diễn xuất của Bồ tát, bên trong là Bồ tát Quan Âm phát Bồ đề tâm, nhưng bên ngoài là Thị Kính bị chồng bỏ.

Chúng ta tìm đạo là tìm trong cuộc đời, trước nhất ta tìm vị chân tu thật học, xa hơn tìm trong xã hội thấy việc làm của họ, thì chúng ta biết nên gần hay nên tránh; không phải bị vô minh thấy thầy tu mới tốt. Người tu hay người đời đều tốt, nghĩa là chánh nghiệp được mở rộng, không còn giới hạn ở hình thức Thanh văn, hay Bồ tát, nhưng là người phát Bồ đề tâm vì nguyện mà sanh lại cuộc đời này để cứu khổ ban vui cho mọi người. 

Phật nói các Tỳ kheo vào làng khất thực không phải vì ăn; vì ăn là ăn mày thật sự. Vào làng độ người là Sa môn thật. Người khất thực giáo hóa chúng sinh, lòng họ không nghĩ đến miếng ăn, đến quyền lợi, nên hiện tướng thanh thoát, khác với nét mặt, cử chỉ, ngôn ngữ của người vì ăn mà khất thực.


Và mở rộng hơn nữa để chúng ta thấy từ bản thể chơn như vào cuộc đời là Bồ tát. Bồ tát từ quả hướng nhân là Bồ tát từ chơn như xuất hiện trên cuộc đời, điển hình là thái tử Sĩ Đạt Ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng giác rồi sanh trên cuộc đời làm thái tử, nhưng bên trong đã là vị Phật. 

Vì vậy, Đức Phật nói Trời, người, A tu la chỉ nhìn bề ngoài, nên lầm tưởng Ngài là thái tử mới sanh ở cung dòng họ Thích đến cội Bồ đề gần thành Già Da mà thành Chánh giác. Vua Tịnh Phạn cũng thấy như vậy, nên ông thấy Phật rách rưới, mới đưa lông bào cho Ngài mặc, nghĩa là thấy bề ngoài, thấy thái tử là con của ông.

Bồ tát thường hiện thân làm Chuyển luân Thánh vương tu hành để thành Phật, tức ngầm chỉ người thành Phật phải có điều kiện tất yếu là Chuyển luân Thánh vương, nghĩa là người phải có đầy đủ phước đức và trí tuệ, tức đã thực hiện hạnh Bồ tát viên mãn. Khi chưa có những điều kiện này, chúng ta phải hành Bồ tát đạo. Bồ tát và Phật sanh lại là thế, việc tu lâu hay mau không cần thiết đối với các Ngài.

Chúng ta là Bồ tát từ nhân hướng quả, nghĩa là có Phật, Bồ tát ra đời, thuyết pháp, giáo hóa, chúng ta nương theo các Ngài  mà phát Bồ đề tâm, từng bước tự sửa mình. Chúng ta coi Bồ tát Quan Âm, Văn Thù, Di Lặc có nét gì để chúng ta bắt chước làm theo là điều quan trọng.

Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói rằng những người đã thành tựu quả A la hán rồi phát Bồ đề tâm tu hành thì dễ dàng. Còn chúng ta mới phát tâm, làm sao tu? Chúng ta phải nương Phật và Bồ tát để tu, không tự ý làm được. Thí dụ tôi làm được việc là nhờ nương những bậc Thầy hướng dẫn để làm, tôi không tự ý làm được, vì cái thấy của mình còn sai lầm. Các vị La hán đã thấy đúng, nên các Ngài tự làm được. Chúng ta thấy sai, nên làm phước cả đời mà vẫn tội. Làm đúng là ta giúp một người ăn nên làm ra, họ có thể thay ta làm tốt cho cuộc đời. Còn giúp họ thành người ăn hại thì làm sao tốt được.

Ta nương Phật và Bồ tát xuất hiện trên cuộc đời, các Ngài để lại tấm gương sáng cho chúng ta sửa mình, đó là chánh nghiệp; vì xuất gia là ở ngoài cuộc đời, nhưng dấn thân vào đời, chúng ta phải nương Bồ tát. Nếu tu Pháp Hoa, phải tìm Bồ tát Tùng địa dũng xuất. Các Ngài luôn hiện hữu trên cuộc đời, tìm các Ngài để chúng ta học. Gương các Ngài là nội bí ngoại hiện, bên ngoài hiện phàm phu, nhưng bên trong là Bồ tát. Các Ngài giỏi nhưng không khoe; thấy họ bình thường, không làm, nhưng sao được kính trọng, chúng ta phải suy nghĩ, học theo.

Tôi có hai vị Thầy mà tôi kính trọng. Hòa thượng Thiện Hoa làm việc không mệt mỏi. Ngài nổi danh với phương châm đề ra là nơi nào chúng sinh cần thì ta tới, không nại gian lao, không từ khó nhọc. Hòa thượng tích cực làm việc, nên mới 54 tuổi đã viên tịch, nhưng làm được nhiều việc quan trọng, để lại cây thang giáo lý cho chúng ta học. Từ thuở tuổi trẻ, tôi nhờ nương vào sự hướng dẫn này của Ngài mà đi lên.

Lớn lên, tôi học với Hòa thượng Trí Tịnh. Ngài không làm gì, chỉ ở trong thiền thất, quanh năm ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, nhưng ai cũng kính trọng Ngài, đó là điều quan trọng mà chúng ta cần suy nghĩ, còn làm việc được kính trọng là điều dễ hiểu. Tôi nhận thấy Hòa thượng là Bồ tát Pháp sư hiện lại, vì trước khi tu, Hòa thượng Vạn Linh đã bảo đại chúng đừng xem thường chú bé này, đời trước đã là Hòa thượng Pháp sư, đời này cũng vậy. Những người khác tu lâu, nhưng Hòa thượng Vạn Linh không coi trọng, mà lại nể Hòa thượng Trí Tịnh. Hòa thượng Tắc Phước nói với tôi rằng Hòa thượng Trí Tịnh có điểm đặc biệt là Ngài đọc kinh nào một lần là nhớ hết. Kinh Pháp Hoa hơn sáu vạn từ mà Ngài nhớ đủ.

Đối với người làm việc tốt, được người kính trọng, chúng ta nên học theo. Đối với người không làm mà được kính trọng, chúng ta phải tìm hiểu, bắt chước theo.

Tìm Bồ tát Tùng địa dũng xuất để học phẩm hạnh của các Ngài. Sáu vạn hằng hà sa Bồ tát Tùng địa dũng xuất mà Bồ tát Di Lặc nói không biết, chưa thấy là mật hạnh, ẩn hạnh. Các Bồ tát này thuần vàng nghĩa là người trọn lành, không tì vết, không chỉ trích được. Bồ tát từ nhân hướng quả phải học theo các Bồ tát này. Bồ tát Tùng địa dũng xuất đông, nhưng có bốn vị thượng thủ: Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An Lập Hạnh. Các Ngài xuất hiện trên cuộc đời, chúng ta có thể học được các việc như sau. Một là nên học những việc khó hiểu, khó làm của Bồ tát Thượng Hạnh; những việc dễ làm, ta nhường cho người khác.

Chúng ta thấy Bồ tát xuất hiện, làm việc khó làm là gì? Làm vua, làm tướng là khó nhất. Làm thầy tu dễ, thất bại đi tu dễ quá. Vì theo tinh thần Đại thừa, lãnh đạo quần chúng, hướng dẫn quần chúng, làm cho xã hội tốt đẹp là khó. Thật vậy, dấn thân hành Bồ tát đạo, nổi tiếng có Lý Công Uẩn, tức vua Lý Thái Tổ và vua Trần Nhân Tông. Thiền sư Vạn Hạnh đào tạo Lý Công Uẩn, thấy rõ ông có năng lực lãnh đạo quần chúng, đưa đất nước phát triển, chắc chắn đó là việc khó; trong khi tìm ông đạo gõ mõ là việc dễ. Năm 1963, Hòa thượng Từ Nhơn cạo đầu cho 300 người làm sư đi biểu tình, tu kiểu này dễ.

Tìm người làm vua khó vô cùng, làm thay đổi vận mạng, thay đổi thời cuộc để đất nước đi lên không dễ. Vào đời làm vua được, lúc bấy giờ không ai ngoài Lý Công Uẩn, nên ông phải hy sinh, điều này khó. Hoặc đức vua Trần Nhân Tông 16 tuổi đã ăn chay trường, đã tu rồi, nhưng vì phải lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, Ngài phải làm vua. Thật sự Ngài không muốn làm vua, vì xem ngai vàng như chiếc giày rách. 

Đối với ngũ dục thế gian, Ngài xem nhẹ và còn khởi tâm từ, cho phép hàng trăm cung phi được trở về lập gia đình. Vì vậy, thắng giặc xong, Ngài lên núi tu hành, rõ ràng Ngài không màng phú quý lợi danh, đã làm những việc khó làm. Chánh nghiệp của Ngài ở chỗ nào? Vua Trần Nhân Tông cầm quân đánh giặc, bao nhiêu tướng sĩ phải chết, nhưng đây là chánh nghiệp theo Đại thừa. Giết người, nhưng là chánh nghiệp của Bồ tát.

Chúng ta còn nhớ tiền thân Phật Thích Ca đi trên thuyền của thương buôn, Ngài đã giết chết tên cướp biển để cứu sống cả thương thuyền. Trên bước đường hành Bồ tát đạo, Ngài giết người không thù oán do trí tuệ chỉ đạo là chặn đứng nghiệp của họ và cứu được 500 người.

Phật giáo Ấn Độ ở thế kỷ 12 bị tiêu diệt, vì bấy giờ Tỳ kheo không có trí tuệ, cố chấp giới luật đến mức cọng cỏ không dám nhổ, sợ tội, thể hiện tinh thần thụ động tuyệt đối, cho nên quân Hồi giáo tràn vô, khum cổ cho chúng chém giết thoải mái.

Vua Trần Nhân Tông ngăn chặn việc ác của quân Mông Nguyên và cứu dân Việt Nam, việc làm cao đẹp này lưu danh đến ngày nay, trải qua 700 năm, Phật giáo chúng ta vẫn tôn thờ Ngài là Phật, Nhà nước coi Ngài là vị anh hùng dân tộc. Đây là chánh nghiệp, làm vua, giết người không vì quyền lợi, nhưng để chặn đứng hành động ác của giặc. Nếu không có Ngài chỉ đạo, triều đình chia năm xẻ bảy, sẽ dễ dàng mất nước.

Học theo hạnh làm việc khó làm, nhưng Phật tử cần lưu ý không phải việc khó, ai cũng làm được. Tôi nói làm vua khó, quý vị suy nghĩ, định làm vua, nhưng việc này không được, vì mình không có khả năng. Sư Vạn Hạnh không làm vua, nhưng bảo Lý Công Uẩn làm, hoặc Đại Đăng quốc sư bảo Trần Thái Tông nên làm vua. Ta làm chuyện khó của ta, kể cả quét lá, gánh nước, bửa củi cũng khó làm. Điển hình như Huệ Năng gánh nước, bửa củi để làm Tổ cũng là chuyện khó làm, chứ không đơn giản.

Tôi vào Phật học đường Nam Việt, chùa Ấn Quang học, tình nguyện rửa nhà vệ sinh để sau này tôi làm Trưởng ban Hoằng pháp, cũng là việc khó. Những việc khó không ai muốn làm, nhưng chúng ta gánh vác, nên ai cũng thương, vì đây là việc công đức. Người xấu xả rác bừa bãi để mặc cho người khác dọn dẹp. Nhưng người tốt dọn dẹp sạch sẽ cho người khác hưởng là việc khó. Không thích hưởng thành quả của người khác là nét đặc biệt của Bồ tát. Ta làm theo hoàn cảnh của ta, theo năng lực của ta, thậm chí có tâm tốt, thấy cây gai trên đường, nhặt bỏ để người khác không giẫm đạp bị đau, cũng là chánh nghiệp.

Bồ tát làm vì lợi ích chúng sinh, kinh Pháp Hoa gọi là Thượng Hạnh Bồ tát cao quý nhất. Thứ hai, Vô Biên Hạnh là Bồ tát đa năng, hiểu biết rộng càng tốt. Dấn thân vào cuộc đời, ở chỗ nào cũng được, việc nào cũng giải quyết tốt đẹp. Thứ ba, tâm luôn trong sáng, không ganh tỵ, không thù hận, không phiền não là Bồ tát Tịnh Hạnh. Nhờ người không làm, chúng ta mới có dịp làm. Ví dụ tất cả đều là Bồ tát, thấy rác lượm, thì không còn việc này cho chúng ta làm. Thứ tư là Bồ tát An Lập Hạnh luôn làm lợi ích cho chúng sinh với tâm thanh tịnh, từ bi.

Tóm lại, chúng ta học những tấm gương sáng của chư Bồ tát. Các Ngài làm đủ mọi ngành nghề, nhưng đều thành Phật, đó là chánh nghiệp của Bồ tát.





Tác giả: DHT - Sưu tầm

Các tin khác



«Quay lại

↑ Top


Video

Liên kết hữu ích

Tỷ giá ngoại tệ

MuaBán
Source vietcombank.com.vn

Quảng cáo

HANDICO6
DỰ ÁN C1 KHU ĐÔ THỊ TRUNG HOÀ NHÂN CHÍNH
DỰ ÁN C2 TRUNG HOÀ – NHÂN CHÍNH
DỰ ÁN 1152 – 1154 ĐƯỜNG LÁNG
Dự án C1
Dự án C1
Dự án C2
DỰ ÁN C2 TRUNG HOÀ – NHÂN CHÍNH
Dự án C2